Chung tay xây dựng Nông thôn mới.

Để cán bộ hội viên nông dân hiểu rõ và hưởng ứng tham gia thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.

 Để cán bộ hội viên nông dân hiểu rõ và hưởng ứng tham gia thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Ban biên tập Website Hội Nông dân tỉnh xin cung cấp tới bạn đọc và cán bộ hội viên nông dân về thực trạng và nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; trong đó vai trò nòng cốt của Hội nông dân các cấp đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trương ương Đảng (khoá IX) đã xác định: “Hội Nông dân là trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới”.

Trận giao hữu bóng đá giữa Công an Huyện Ninh Phước và đội bóng thanh niên nông thôn xã Phước Vinh Ninh Phước nhân kỷ niệm 20 năm thành lập xã.

…“Tỉnh Ninh Thuận thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp biển Đông. Diện tích tự nhiên của các xã thực hiện Chương trình nông thôn mới 297.648 ha chiếm 88,6% diện tích toàn tỉnh, trong đó đất sản xuất nông nghiệp đến cuối năm 2009 có 53.114,22/69.698,30 ha chiếm 76,21% đất nông nghiệp toàn tỉnh, đất lâm nghiệp 185.955,64 ha chiếm 55,38% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, địa hình có 3 dạng: miền núi chiếm 63,2%, đồi gò bán sơn địa chiếm 14,4% và đồng bằng ven biển chiếm 22,4% diện tích tự nhiên. Khí hậu mang tính nhiệt đới gió mùa, có đặc trưng khô nóng và gió nhiều, nhiệt độ trung bình từ 26-270C, lượng mưa trung bình năm 700 mm, có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9-11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Với điều kiện địa hình dốc và mùa mưa chỉ có 3 tháng nên dễ gây ra lũ quét, xói mòn ở vùng miền núi và vùng hạ lưu.

Toàn tỉnh có 7 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố và 6 huyện, với 65 xã phường, trong đó có 47 xã được nằm trong Chương trình xây dựng nông thôn mới, (có huyện Bác Ái được Chính phủ đưa vào danh sách 62 huyện nghèo nhất cả nước và được đầu tư theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP).

Thực hiện Chương trình nông thôn mới toàn tỉnh có 47 xã trong đó có 46 xã thuộc địa bàn 6 huyện và 01 xã thuộc địa bàn thành phố với tổng số hộ  hành chính 86.123 hộ chiếm 62,46% số hộ toàn tỉnh, 395.775 nhân khẩu chiếm 64,288% số nhân khẩu toàn tỉnh. Qua quá trình 20 năm đổi mới, các xã  thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh đã có nhiều khởi sắc do được đầu tư bằng nhiều Chương trình, dự án của đảng và nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên; tập quán sản xuất được chuyển đổi theo chiều hướng tích cực từ sản xuất độc canh, tự cung, tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hoá (đối với các huyện miền núi), đưa các loại giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất, đáp ứng một phần nguyên liệu cho cơ sở chế biến nông sản trong tỉnh. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại như thu nhập bình quân đầu người đạt thấp; kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập; trình độ dân trí chưa cao, lao động chưa qua đào tạo, chủ yếu là lao động phổ thông; tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn còn cao.

Theo kết quả rà soát, quy hoạch lại 03 loại rừng giai đoạn 2007-2015 thì đến 31/12/2006, diện tích đất lâm nghiệp là 239,3 nghìn ha; trong đó: rừng phòng hộ 176,7 nghìn ha; rừng đặc dụng 42,3 nghìn ha và rừng sản xuất 20,3 nghìn ha. Được phân ra ở cấp phòng hộ rất xung yếu là 46,8 nghìn ha, chiếm 19,6%; cấp phòng hộ xung yếu là 134,4 ha, chiếm 56,3%; cấp phòng hộ ít xung yếu là 57,3 nghìn ha, chiếm 24,1%. Dự kiến đến 2015, diện tích đất lâm nghiệp điều chỉnh đưa ra ngoài quy hoạch 03 loại rừng cho các mục đích khác là: 40.183,3 ha. Tài nguyên rừng Ninh Thuận vừa có ý nghĩa phát triển kinh tế, khai thác để phát triển du lịch kết hợp với chức năng phòng hộ. Nằm  trong vùng khô hạn, nên thời gian tới việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng của tỉnh (chủ yếu là rừng phòng hộ) giữ vai trò quan trọng đối với phát triển các ngành kinh tế - xã hội và cải tạo môi trường sinh thái.

Bờ biển tỉnh Ninh Thuận dài 105Km với vùng đặc quyền kinh tế 24.480Km2 lãnh hải nội thủy rộng 1.800Km2, có các cửa ra biển là Đông Hải, Cà Ná, Ninh Chữ, Mỹ Tân,Vĩnh Hy, rất phong phú các chủng loại sinh vật. Tổng trữ lượng hải sản có khoảng 120.000 tấn, trữ lượng cho phép khai thác hàng năm từ 50-60 ngàn tấn hải sản các loại. Đặc thù vùng biển Ninh Thuận không có đảo, có nhiều núi đá nhô ra biển tạo điều kiện để hình thành cảng như Mũi Dinh, có các cửa biển nước sâu làm nơi trú ẩn cho các tàu thuyền có công suất lớn, trong mùa mưa bão.

            -  Tài nguyên dưới lòng biển: có nguồn lợi san hô đa dạng, phong phú về thành phần loài, đang được  bảo tồn, bảo vệ và khai thác phát triển các loại hình du lịch biển, phục vụ lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhờ có rạn san hô ven biển giúp cho việc che chắn xói lở ven bờ.

            - Tài nguyên ven bờ: có điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản cho từng loại hình mặt nước như nuôi biển, nuôi nước lợ, nuôi trên cát, nuôi nước ngọt và  nhất là sản xuất giống thủy sản.

            Tài nguyên biển của tỉnh là một trong những điều kiện phát triển mạnh kinh tế biển (công nghiệp, du lịch và thủy sản), đưa những ngành này thành những ngành có vị trí quan trọng, hình thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

- Ngày 25/6/2002 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Quy hoạch phát triển Thủy sản tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2001 - 2010; và được rà soát, điều chỉnh tại Quyết định số 198/2007/QĐ-UBND ngày 10 tháng 8 năm 2007.

- Tỉnh đã xây dựng Quy hoạch phát triển lâm nghiệp tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 1998 - 2010 và được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thẩm định tại tại Văn bản số 242/BNN-PTLN ngày 12 tháng 01 năm 1998;

- Các Quy hoạch đã và đang triển khai đó là: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông lâm nghiệp thủy sản giai đoạn 2011 - 2020; Quy hoạch bố trí dân cư vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ nông thôn, cụm công nghiệp và làng nghề; Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh, giai đoạn 2011 - 2020.

Đến nay tỉnh đang chuẩn bị phê duyệt: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2010 và tầm nhìn đến năm 2030 và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thành phố Phan Rang - Tháp Chàm và dải ven biển tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Qua điều tra 47/47 xã của toàn tỉnh  thực Chương trình nông thôn mới, các xã phần lớn đã có quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt, quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch các khu dân cư. Nhưng  nhìn chung các quy hoạch không đồng bộ mang tính chất chắp vá, chất lượng quy hoạch thấp. Các quy hoạch sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản…chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chủ yếu là tự phát. Việc quy hoạch không có sự  phối hợp tốt giữa các ngành chức năng, các địa phương, nên đã sớm bị lạc hậu. Nhận thức của cấp ủy, chính quyền cơ sở và người dân về việc lập và thực hiện quy hoạch còn hạn chế về tầm nhìn, vì thế không có tính tổng thể; thiếu sự kết hợp hài hòa giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch khu trung tâm, hạ tầng kinh tế - xã hội, khu sản xuất tập trung, khu thương mại, dịch vụ ... So với tiêu chí quy định 47/47 xã chưa đáp ứng được tiêu chí quốc gia về quy hoạch nông thôn mới.

Hiện nay sản xuất chủ yếu của nông thôn, các xã  ven biển, đồng bằng, và  miền núi vẫn là trồng trọt và chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, diêm nghiệp, đánh bắt thủy sản tự nhiên. Nhìn chung trồng trọt là chính, chăn nuôi là phụ, trồng trọt vẫn một năm 1 - 3 vụ lúa, ngô, các cây ngằn ngày khác, nhờ có giống mới có năng suất cao, hơn nữa bà con nông dân đã biết đầu tư chăm bón, nên sản lượng lương thực ngày càng cao, cơ bản đáp ứng nhu cầu lương thực.

Ngoài ra chăn nuôi , nuôi trồng thủy sản cũng đã có chiều hướng phát triển, tạo thêm nguồn thu nhập cho nông dân. Nhưng nhìn chung do đất đai sản xuất nông nghiệp, đang ngày càng bị thu hẹp, năng suất cây trồng, năng suất nuôi trồng thủy sản  cũng đã đội trần; chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và diêm nghiệp đã có xu hướng chuyển từ thủ công, nhỏ lẻ sang hướng tập trung và có đầu tư nhưng nhìn chung chưa nhiều, chưa tạo thành nguồn hàng hoá lớn.

Xét về tổng thể mỗi hộ nông dân vẫn chỉ sản xuất vài ba sào ruộng, chăn nuôi vài ba con lợn, một vài con trâu, bò để cày, kéo và lấy phân bón ruộng. Không ít hộ muốn mở rộng sản xuất, chăn nuôi, nhưng do thiếu đất, thiếu vốn, thiếu tư duy và cả kinh nghiệm làm ăn… Nên nhìn chung thu nhập của bà con chưa cao, tính thu nhập bình quân đầu người vẫn còn rất khiêm tốn, nếu không nói là nghèo.

Trong khi, nông thôn đồng bằng, miền núi có nhiều tiềm năng về lao động và nguyên nhiên liệu cho sản xuất và chế biến, thì việc huy động vốn của người nông dân cũng gặp khó khăn. Việc đưa giống mới vào sản xuất, chăn nuôi đòi hỏi phải đầu tư lớn, thì người nông dân lại thiếu vốn để mua vật tư, phân bón và công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch, cho nên chất lượng hàng hoá sản phẩm không cao, không đảm bảo theo yêu cầu của thị trường, sản phẩm hiện nay của nông dân không qua chế biến nên không được giá. Bên cạnh đó phải thấy rõ về quỹ thời gian lao động ở nông thôn, miền núi hiện nay đang rất lãng phí do không có việc làm, không có nghề phụ. Mặt khác lối sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, canh tác lạc hậu, phương thức sản xuất tự cấp, tự túc đã ăn sâu cả ngàn đời nay trong người nông dân, thiếu tư duy kinh tế, không dám mạnh dạn bứt phá, mở hướng làm ăn mới, cộng với tư tưởng chịu khổ không chịu khó, an phận thủ thường… đang bó buộc người nông dân, càng làm cho họ chưa khấm khá lên được.

Việc mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho nông thôn, miền núi chưa nhiều, làng nghề và làng có nghề chưa phát triển được bao nhiêu, lao động nông thôn chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn, mặt khác thanh niên nông thôn không thích lao động nhất là lao động nông nghiệp, lao động trực tiếp…, càng làm cho đói nghèo ở nông thôn, miền núi vốn đã khó lại càng khó thêm…

Qua điều tra toàn tỉnh có  86.123 hộ, thu nhập bình quân đầu người 6.300.000 đồng/người/năm. Trong đó huyện Ninh Sơn: thu nhập bình quân đầu người 5.100.000 đồng/người/năm; huyện Ninh Phước: thu nhập bình quân đầu người 7.980.000 đồng/người/năm; huyện Thuận Nam: thu nhập bình quân đầu người 7.880.000 đồng/người/năm; huyện Thuận Bắc: thu nhập bình quân đầu người 6.880.000 đồng/người/năm. Huyện Bác Ái: thu nhập bình quân đầu người 3.950.000 đồng/người/năm; huyện Ninh Hải: thu nhập bình quân đầu người 4.110.000 đồng/người/năm và xã Thành Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm: thu nhập bình quân đầu người 14.400.000 đồng/người/năm.

So với thu nhập bình quân chung của tỉnh đạt : 525.000 đồng/ 763.000 đồng / người/ tháng, chiếm tỷ lệ : 0,68 lần.

Trong những năm qua, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền và sự hỗ trợ của các đoàn thể, phong trào xoá đói, giảm nghèo phát triển sâu rộng, động viên được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân , đã giúp cho nhiều hộ vượt qua đói nghèo, một số vươn lên khá giả. Từ thực tiễn phong trào xoá đói, giảm nghèo, Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII) đã nêu lên một nhiệm vụ có ý nghĩa kinh tế - chính trị, xã hội to lớn: "Tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở các vùng cao, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng". Thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ, phong trào xoá đói, giảm nghèo đang trở thành cuộc vận động lớn, có tác dụng thiết thực làm giảm đáng kể số hộ nghèo đói, giúp cho các hộ còn nghèo, đói giảm bớt được khó khăn.

Tuy nhiên, đến nay cả tỉnh vẫn còn trên 15,33% số hộ nghèo chuẩn,  trong đó 47 xã thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới  tỷ lệ hộ nghèo chiếm 19,68% trên tổng số hộ, nhiều vùng còn nghèo, tập trung chủ yếu ở nông thôn huyện Bác Ái, tỷ lệ chiếm trên 66%. Sự phân hoá giàu nghèo vẫn đang có xu hướng tăng lên giữa các tầng lớp dân cư và các vùng của tỉnh. Ngoài nguyên nhân khách quan do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiếu đất canh tác, thiếu vốn, thiếu việc làm... còn có các nguyên nhân chủ quan như năng lực sản xuất kinh doanh thấp, đông con; có nơi, có lúc các ngành, các cấp chưa quan tâm đúng mức đến việc chỉ đạo thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo, tổ chức khám chữa bệnh, tạo điều kiện học hành cho người nghèo .

Qua số liệu điều tra, 47 xã hiện còn 16.949/ 86.123 hộ, chiếm tỷ lệ: 19,68% tổng số hộ hiện có. Trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện có tỷ lệ như sau: huyện Ninh Sơn: 4.860/18.045 hộ, chiếm tỷ lệ: 26,93%; huyện Ninh Phước: 3.688/30.016 hộ, chiếm tỷ lệ : 12,29%; huyện Thuận Nam: 1.567/11.759 hộ, chiếm tỷ lệ: 13,33%; huyện Thuận Bắc: 2.045/8.678 hộ, chiếm tỷ lệ: 23,57%; huyện Bác Ái: 3.618/5.423 hộ, chiếm tỷ lệ: 66,72%; huyện Ninh Hải: 2.276/22.378 hộ, chiếm tỷ lệ: 10,17%; xã Thành Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm: 170/2.078 hộ, chiếm tỷ lệ: 8,18%.

Toàn tỉnh có 02/47 xã đạt tiêu chí quốc gia có số hộ nghèo ≤ 5%, chiếm tỷ lệ: 4,26% trên tổng số xã. Gồm các xã :   xã Cá Ná, xã Phước Diêm, huyện Thuận Nam”...

Từ số liệu điều tra của Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới cho thấy, việc xây dựng nông thôn mới ở tỉnh ta là một trong những nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng bộ, chính quyền, các sở ban ngành và nhân dân trong tỉnh. Hội nghị Ban chấp hành tỉnh ủy khóa XII đã đề ra nghị quyết 02 về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong xây dựng Nông thôn mới, qua 3 năm triển khai thực hiện đế nay toàn tỉnh mới cơ bản hoàn thành tiêu chí quy hoạch, an ninh trật tự xã hội, nhiều xã điểm Nông thôn mới của tỉnh và của huyện cũng chỉ đạt 5-10 tiêu chí, trong đó những tiêu chí như cơ cấu lao động, môi trường chưa có xã nào đạt. Qua số liệu trên so với tiêu chí tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng chính phủ:

Bộ tiêu chí xây dựng Nông thôn mới (19 tiêu chí)

Nhóm 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch:

Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch

03 nội dung có 47/47 xã chưa đạt tiêu chí.

             Nhóm 2- Hạ tầng Kinh tế - Xã hội:

             Tiêu chí 2: Giao thông:

             - Đường trục xã, liên xã: có 14 xã đạt tiêu chí.

             - Đường trục thôn xóm: có 2 xã đạt tiêu chí.

             - Đường ngõ, xóm sạch không lầy lội vào mua mưa: có 1 xã đạt tiêu chí.

             - Đường trục chính nội đồng: có 6 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 3: Thủy lợi :

             - Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh: có 14 xã đạt tiêu chí.

             - Km kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa: có 3 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí.4: Điện :

             - Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện: có 47 xã đạt tiêu chí.

             - Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên an toàn: có 25 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 5: Trường học :

             - Trường học các cấp mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS có vật chất đạt chuẩn quốc gia: 47 xã  chưa đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa :

             - Nhà văn hóa văn hóa xã đạt chuẩn:                 12 xã đạt tiêu chí.

             - Khu thể thao xã đạt chuẩn:                               3 xã đạt tiêu chí.

             - Nhà văn hóa văn hóa  thôn đạt chuẩn:               2 xã đạt tiêu chí.

             - Khu thể thao thôn đạt chuẩn:                            Chưa có xã nào đạt tiêu chí.

                         Tiêu chí 7: Chợ nông thôn: 4 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 8: Bưu điện :

             - Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông :          42 xã đạt tiêu chí.

             - Có Iternet đến thôn:                                       36 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư:

             - Nhà tạm, dột nát:                                           20 xã chưa đạt tiêu chí.

             - Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn:                     47 xã đạt tiêu chí.

             Nhóm 3. Kinh tế và Tổ chức sản xuất :

Tiêu chí 10: Thu nhập:

- Thu nhập bình quân đầu người/ năm so với bình quân chung của tỉnh : mới bằng 0,68 lần, chưa có xã nào đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 11: Hộ nghèo: Có 2 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 12: Cơ cấu lao động :

- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm ,ngư nghiệp: chưa có xã nào đạt tiêu chí .

             Tiêu chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất :

- Có Tổ hợp tác hoặc Hợp tác xã hoạt động có hiệu quả: 4 xã đạt tiêu chí.

             Nhóm 4. Văn hóa - Xã hội - Môi trường :

             Tiêu chí 14: Giáo dục :

             - Phổ cập giáo dục trung học: 29 xã đạt tiêu chí.

             - Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học: 29 xã đạt tiêu chí.

             - Tỷ lệ lao động qua đào tạo: chưa có xã nào đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 15: Y tế :

             - Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức BHYT: 37 xã đạt tiêu chí.

             - Y tế xã đạt chuẩn quốc gia: 24 xã đạt tiêu chí.

             Tiêu chí 16: Văn hóa :

             - Xã có từ 70%  số thôn trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hóa: Chưa có xã nào đạt                                   Tiêu chí 17: Môi trường :

             - Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh: 15 xã đạt tiêu chí.

             - Cơ sở SX- KD đạt tiêu chuẩn về môi trường: 13 xã đạt tiêu chí.

             - Không có các hoạt động suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch đẹp : Chưa có xã nào đạt tiêu chí.

             - Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch : 24 xã đạt tiêu chí.

             - Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý : 12 xã đạt tiêu chí.

             Nhóm 5. Hệ thống chính trị:

             Tiêu chí 18: Hệ thống chính trị:

             - Cán bộ xã đạt chuẩn: 2 xã đạt tiêu chí.

             - Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị: 47 xã đạt tiêu chí.

             - Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “ trong sạch, vững mạnh”: 23 xã đạt tiêu chí.

             - Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt tiên tiến: 23 xã đạt tiêu chí.

             Nhóm 6 . An ninh trật tự xã hội :

              Tiêu chí 19: An ninh trật tự xã hội :

             - An ninh, trật tự xã hội được giữ vững: 47 xã đạt tiêu chí.

Trong 47 xã xây dựng chương trình nông thôn mới tỉnh Ninh Thuận đạt được một số tiêu chí như sau:

- Có 11 xã đạt 5 - 10 tiêu chí .

- Có 36 xã đạt dưới 5 tiêu chí .

Để đẩy nhanh chương trình xây dựng nông thôn mới... “Trước hết Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát triển nông thôn mới, kiện toàn hệ thống cơ quan chuyên ngành về phát triển nông thôn và tăng cường năng lực cán bộ quản lý Nhà nước về phát triển nông thôn các cấp. Các tổ chức Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh đóng vai trò nồng cốt trong việc xây dựng nông thôn mới tại địa phương và vận động, tổ chức hội viên, đoàn viên tham gia.

Tiếp tục triển khai các dự án ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp, các dự án đầu tư công nghệ trong sản xuất và công nghệ sau thu hoạch, các dự án giống cây trồng vật nuôi (cụ thể là 04 dự án Khoa học công nghệ trong nông nghiệp đang triển khai trên địa bàn tỉnh). Phổ biến sử dụng công nghệ và thiết bị bảo quản, sơ chế, chế biến sau thu hoạch, đóng gói thành phẩm quy mô hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức về mô hình kinh tế hợp tác, Câu lạc bộ, HTX . Tập trung củng cố các HTX để hoạt động có hiệu quả. Thực hiện đầy đủ các chính sách để xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác, Câu lạc bộ, HTX ở vùng nông thôn.

Căn cứ quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch các ngành đã được phê duyệt. UBND các huyện rà soát quy hoạch để kiến nghị điều chỉnh bổ sung hoặc làm mới các quy hoạch có liên quan làm cơ sở triển khai Đề án (quy hoạch nông nghiệp, chăn nuôi, giết mổ, thủy sản, quy hoạch ngành nghề nông thôn).

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng chủ lực cho phù hợp với lợi thế của từng vùng, mở rộng quy mô sản xuất một số cây trồng chủ lực có lợi thế cạnh tranh trên thị trường, tổ chức sản xuất theo hướng tập trung, sản xuất hàng hóa lớn gắn với thị trường và các cơ sở chế biến.

Đẩy mạnh công tác khuyến nông, áp dụng công nghệ tiên tiến như: Công nghệ sinh học, giống, cơ giới hóa, thủy lợi hóa, giống, công nghệ sản xuất sạch, công nghệ chế biến nông sản, những tiến bộ kỹ thuật canh tác nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất.

Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh cũng như giữ vững vị thế của Việt Nam trên thị trường.

Tăng cường công tác khuyến ngư, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, hạn chế ô nhiễm môi trường .

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân trong việc quản lý, bảo vệ, phát triển và phòng chống cháy rừng. Vận động các thành phần kinh tế tham gia trồng rừng.

Phát triển công nghiệp chế biến phù hợp với quy hoạch để phát huy thế mạnh đồng thời gắn liền với việc hình thành và phát triển các vùng nguyên liệu.

Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến những loại nông sản phẩm mà tỉnh có ưu thế, đảm bảo đủ sức cạnh tranh tham gia thị trường trong và ngoài nước. Khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ chế biến nông - lâm - thủy sản, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ để phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng ít nguyên liệu, nhiều lao động.

Hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận thị trường, đẩy mạnh các hoạt động: Giới thiệu sản phẩm, quảng cáo, tham gia hội chợ, xúc tiến thương mại. Khuyến khích thực hiện liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong đầu tư sản xuất và tiêu thụ nông sản.

Khai thác có hiệu quả quỹ đất chưa sử dụng, thu hồi đất đã giao cho các tổ chức nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích đưa vào sản xuất có hiệu quả; ưu tiên dành quỹ đất cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo không có đất sản xuất và cho việc phát triển văn hóa thể dục thể thao, y tế, giáo dục ở nông thôn. Hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh.

Giao thông nông thôn: Tổ chức tốt việc lồng ghép các dự án giao thông trên địa bàn xã đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa giao thông huy động sự đóng góp của nhân dân và các doanh nghiệp trên địa bàn.

Giáo dục - Đào tạo: Đa dạng hóa các loại hình đào tạo ở tất cả các cấp theo hướng xã hội hóa; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trường lớp đạt chuẩn Quốc gia; củng cố các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý ngành giáo dục đảm bảo đủ về số lượng và cơ cấu cho các môn học; tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học.

Y tế: Tiếp tục củng cố và phát triển mạng lưới y tế ở cơ sở; nâng cấp các trung tâm y tế và trạm y tế; đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân; tăng cường công tác tuyên truyền; đẩy mạnh kiểm tra công tác sử dụng an toàn hợp lý về thuốc trong các cơ sở điều trị Nhà nước và tư nhân.

Văn hóa - Thể thao: Huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư cơ sở vật chất cho phát triển văn hóa, thể thao ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động các lĩnh vực văn hóa, thể thao phục vụ lợi ích và nhu cầu của nhân dân địa phương. Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hóa, thể thao.

Bưu chính, viễn thông, thông tin liên lạc: Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin, đưa công nghệ thông tin về nông thôn, vùng sâu, vùng xa và chú trọng phát triển hệ thống các điểm văn hóa ấp, xã với truy cập Internet công cộng. Cung cấp thông tin khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đến các huyện, xã trong tỉnh.

Thương mại, dịch vụ và du lịch: Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các điểm dịch vụ cung ứng vật tư sản xuất, thu mua nông sản thực phẩm. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển thương mại dịch vụ, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Nâng cấp và xây dựng mạng lưới chợ theo quy hoạch. Huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn để mở rộng mạng lưới phát triển dịch vụ du lịch về vùng nông thôn, đặc biệt là du lịch sinh thái gắn liền với việc giới thiệu những sản phẩm truyền thống mang thương hiệu nổi tiếng.

Thủy lợi: Đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư xây dựng và quản lý khai thác công trình thủy lợi cho các địa phương gắn liền với tổ chức bộ máy và năng lực cán bộ thực hiện; đẩy mạnh quá trình quản lý thủy lợi theo mô hình có sự tham gia của người dân (PIM) đối với vùng tưới các hồ đập thủy lợi của tỉnh. Huy động sự đóng góp của nhân dân và các tổ chức trong việc đầu tư xây dựng những công trình thủy lợi nhỏ và hệ thống kênh mương nội đồng.

Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn: Nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích sử dụng nước sạch và trách nhiệm trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ các công trình cấp nước. Phổ biến kiến thức, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn nước sinh hoạt. Lồng ghép các chương trình, dự án, huy động các nguồn lực để giải quyết việc sử dụng nước sạch ở vùng nông thôn. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phòng ngừa, kiểm soát xử lý ô nhiễm do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón trong trồng trọt, chất thải trong chăn nuôi, quản lý và bảo vệ bền vững tài nguyên đất.

Tiếp tục nâng cao nhận thức, ý chí quyết tâm phấn đấu vượt nghèo của các hộ nghèo; xã nghèo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia công tác giảm nghèo; tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị, đoàn thể. Huy động nguồn lực: Ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, các nguồn tài trợ từ cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, tổ chức lồng ghép các chương trình để hỗ trợ cho người nghèo, xã nghèo.

Đẩy mạnh các hoạt động dạy nghề, nâng cao số lượng và chất lượng lao động cả 4 cấp trình độ: Cao đẳng nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề và đào tạo ngắn hạn, gắn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.

Phát động phong trào và tổ chức nông dân thực hiện các chương trình xã hội hóa đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và nâng cao đời sống. Ngoài các giải pháp nói trên, các ngành các cấp căn cứ vào giải pháp thực hiện của các chương trình phát triển kinh tế xã hội có liên quan đã được UBND tỉnh phê duyệt để lồng ghép triển khai thực hiện Đề án nông thôn mới”…

Với vai trò là trung trâm và nòng cốt cán bộ hội viên nông dân trong tỉnh nhiệt tình hưởng ứng tham gia xây dựng nông thôn mới. Trong những năm trước mắt thực hiện nghị quyết số 38 của BCH Hội Nông dân khó VI nhiệm kỳ 2008-2013 và kết luận 61 của Ban bí thư và đề án số 01 của Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam, các cấp Hội Nông dân trong tỉnh “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 -2020” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trương ương Đảng (khoá IX) đã xác định: “Hội Nông dân là trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới”.