Cà Ná là một xã vùng biển, một địa danh đã có tự bao đời, kinh tế Cà Ná nhiều thành phần: khai thác hải sản, chế biến, nuôi trồng hải sản, nhà hàng khách sạn, thương mại, dịch vụ và hậu cần… Nhưng khai thác vẫn là mũi nhọn chủ lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương. Năng lực tàu thuyền hiện có 314 chiếc , tương đương với 34.752 cv. Trong những năm gần đây do tác động của yếu tố môi trường , do biến đổi khí hậu và do sự khai thác quá mức của con người nên sản lượng và số lượng loài hải sản gần bờ đến hồi cạn kiệt.
Bởi vậy, khai thác hải sản xa bờ, tiến xa hơn, khơi hơn không chỉ là định hướng của Chính phủ, là mục tiêu của của các ban ngành có liên quan mà là quyết tâm của bà con ngư dân có tàu công suất lớn.
Trong quá trình đưa tàu đi tham gia khai thác trên biển, có lúc vươn ra khơi và hoạt động khai thác các vùng biển Nam Trung bộ như Bình Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu,Sóc Trăng,Côn Đảo, Kiên Giang…,có khi đến các vùng đảo Trường Sa, vùng ranh giới biển của các Quốc gia Đông Nam Á, đi hoạt động đơn lẻ giữa biển rộng mênh mông luôn đi kèm theo những rũi ro như giông bão, gió lốc, dòng hải lưu… và những sự cố trục trặt bất ngờ trên tàu như tai nạn, máy móc hư hỏng, cướp biển; hoặc những tai nạn lao động trong quá trình tham gia sản xuất hay những đau ốm bất ngờ có thể xảy ra bất kỳ lúc nào… Và nếu những điều rủi ro ấy xảy ra mà không thể liên lạc được với các tàu bạn một cách nhanh nhất để ứng cứu kịp thời, thì mức thiệt hại về tài sản và con người là rất lớn, thậm chí có thể mất tích. Bởi vậy việc liên kết lại với nhau trong quá trình sản xuất trên biển là yêu cầu rất cần thiết của bà con ngư dân. Nên vào năm 2008, một số tàu thuyền của bà con ngư dân tự động tập hợp lại với nhau trong mối quan hệ bà con hoặc cùng chung một ngành nghề , cùng một tư tưởng có thể thông cảm và chia xẻ lẫn nhau, ban đầu là 1 tổ gồm có 4 chiếc , đồng thời cử ông Phan Văn Loan làm tổ trưởng điều hành hoạt động của tổ. Kể từ dạo ấy đoàn tàu của bà con ngư dân cảm thấy tự tin hơn trong quá trình tham gia lao động sản xuất trên biển, yên tâm hơn trong những hành trình dài ngày, cũng từ đó sản lượng bình quân cho mỗi đơn vị tàu thuyền tăng lên rõ rệt trong mỗi chuyến biển, thu nhập trên mỗi đơn vị tàu thuyền và người lao động cũng tăng đáng kể. Nếu như trước thời gian ấy hoạt động riêng lẻ thì thu nhập mỗi chiếc tàu đạt chừng 130 triệu đồng/năm ( năm 2008) thì sau khi gia nhập tổ đã đạt mức 160 đồng/năm, còn đối với số người lao động thì cũng đạt được mức thu nhập chừng ấy.
Phong trào thành lập tổ chỉ nhen nhóm ở một tổ thành lập đầu tiên vào năm 2008 và chỉ ở chừng ấy, cho đến năm 2011 phong trào ấy mới được nhân rộng cho đến hiện nay.Thấy được sự hiệu quả của Tổ đoàn kết khai thác thuỷ sản một số thành viên khác mới xin gia nhập vào tổ, cho đến nay tồ đoàn kết khai thác của chúng tôi được kết nạp khoảng 43 chiếc / 11 tổ, tương đương với 10.750 cv và 516 lao động , so với năm 2012 tăng 4 tổ/ 8 chiếc tàu thuyền , được UBND xã Cà Ná ban hành quyết định công nhận, cùng kèm theo quy chế hoạt động của tổ. Đây là sự quan tâm đúng lúc của chính quyền địa phương và cũng là sự động viên tinh thần cho các thành viên trong tổ. Các thành viên trong tổ thấy rằng có sự quan tâm của nhà nước đối với ngư dân, làm cho họ thật sự tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng, nhất là vấn đề nhạy cảm của tình hình Biển Đông như hiện nay, họ cảm thấy vững tin khi đưa tàu đến với nơi biển đảo xa xôi của Tổ quốc.
Bên cạnh đó, Ban chỉ huy quân sự xã đã xây dựng, huấn luyện lực lượng Trung đội dân quân biển gồm 30 đội viên phân bố đều trên mỗi đơn vị tàu thuyền trên tất cả thành viên của tổ, nếu cần có thể lên phương án bảo vệ, hổ trợ nhau quyết tâm bám biển sản xuất . Dù tài sản là của riêng từng người nhưng được sự thống nhất cao về tinh thần đoàn kết trong lúc tham gia khai thác trên biển. Mỗi khi các tổ ra khơi thì các thành viên chia nhau theo cự ly và hành trình đã được lên kế hoạch trước, cứ thế thế cùng nhau thăm dò đàn cá. Nếu một trong số các thành viên nào phát hiện khai thác trước vừa đủ trọng tải của phương tiện thì cứ việc khai thác, còn trường hợp phát hiện mật độ cá dày tuỳ theo trữ lượng mà có thể liên lạc với nhau theo những chiếc gần nhất. Quá trình khai thác trong lúc phát hiện đàn cá luôn giữ thông tin liên lạc với nhau. Nếu thuyền nào đủ trọng tải thì đưa sớm vào đất liền tiêu thụ. Hoặc không đủ chuyến chở vào thì sản phẩm được tập trung lại 1 hay 2 chiếc và đưa vào nơi tiêu thụ gần nhất, rồi mang dầu, đá, lương thực và các nhu yếu thẩm thiết yếu ra cho các thuyền đang bám biển. Nhờ vậy gặp thời tiết thuận lợi cả tổ vẫn có thể liên tục duy trì khai thác dài ngày trên biển. Đây là yếu tố giảm chi phí nhiên liệu trong mỗi chuyến biển, đồng thời giảm thiểu tối đa sự hao mòn của máy thuỷ và các máy móc khác.
Bảng theo dõi tình hình phát triển, tăng trưởng của các tổ khai thác hải sản trong các năm:
Thời gian
|
Số lượng tổ
|
Số lượng thuyền
|
Tổng công suất
|
Số Lao động
|
Sản lượng
|
Thu nhập
|
2011
|
3
|
16
|
3240 cv
|
192
|
1862 tấn
|
300 triệu đ/c
|
2012
|
7
|
35
|
7350 cv
|
423
|
5000 tấn
|
360 triệu đ/c
|
2013
|
11
|
43
|
10.750 cv
|
516
|
6450 tấn
|
Ước 500 trđ/c
|
Trong đó có: - 31 tàu công suất lớn ( từ 191 – 150 cv)
- 12 tàu công suất vừa ( từ 110 – 190 cv)
Ngoài ra tổ còn chia sẽ thông tin hữu ích, kịp thời về ngư trường, giá cả, thị trường tiêu thụ. Trong những trường hợp thời tiết xấu, thiên tai các thành viên trong tổ còn hỗ trợ nhau kịp thời.
Việc ra đời các tổ đoàn kết khai thác hải sản trên biển nhằm tăng cường hơn nữa sự gắn bó, đoàn kết hỗ trợ của ngư dân địa phương trong quá trình khai thác trên biển ,giúp cho việc phát triển kinh tế của ngư dân mang tính bền vững hơn, giảm thiểu các yếu tố rũi ro để ngư dân yên tâm bám biển vươn ra khơi, khai thác tiềm năng hải sản của vùng lãnh hải quốc gia. So với hoạt động riêng lẻ, thành viên trong tổ Đoàn kết khai thác hải sản đạt được sản lượng bình quân trên mỗi chiếc tàu thuyền tăng cao hơn trong một tháng ở mức 120%. Từ đó thu nhập của mỗi thành viên tăng rõ rệt, đồng thời chi phí mội chuyến biển giảm đáng kể.
Mô hình hoạt động của tổ đoàn kết khai thác hải sản đem lại nhiều hiệu quả thiết thực, mô hình này cần đươc tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng không chỉ ở 11 tổ mà còn nhiều hơn thế nữa nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết vùng kinh tế biển, đồng thời cùng nhau góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc.
Đối với chính quyền địa phương thì liên hệ với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện tạo điều kiện cho các thành viên trong các tổ vay vốn để đóng mới, cải hoán taù thuyền, mua sắm ngư lưới cụ… Còn đối với nhà nước thì quan tâm đến các tổ bằng nhiều chương trình hổ trợ như: Trung tâm khuyến nông – khuyến ngư hổ trợ 50% kinh phí lắp đặt máy dò ngan ( 2 cái năm 2011,2012); năm 2012 Chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản Ninh Thuận hổ trợ 05 thiết bị định vị vệ tinh ( Movimar); nhân dịp tết Quý Tỵ quỹ “ tấm lưới nghĩa tình” hổ trợ cho các gia đình thuyền viên ăn tết với số tiền 3,1 triệu đồng/10 hộ. và trong đầu tháng 6/2013, quỹ “ Tấm lòng vàng người lao động” đã tặng 80 áo phao và 20 thùng thuốc sơ cấp cứu trang bị trên tất cả các tàu thuyền tổng trị giá gần 20 triệu đồng. và hiện nay Hội Nông dân xã đã gởi đề nghị lên Chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản Ninh Thuận xin cấp thêm 11 chiếc thiết bị định vị toàn cầu cho các tổ đoàn kết khai thác.
Qua mô hình tổ đoàn kết khai thác hải sản với những lợi ích thiết thực nêu trên, song để sử dụng hết năng lực tàu thuyền hiện có đồng thời tận dụng tối đa những khoảng thời gian và những mùa vụ khác trong năm, Hội Nông dân chúng tôi vận động các thành viên thuộc tổ, đầu tư thêm các loại nghề khai thác nhằm đa dạng hoá ngư lưới cụ theo những mùa vụ khác nhau trong năm. Mức đầu tư hiện nay là quá lớn so với điều kiện kinh tế thực có của bà con ngư dân, với mức đầu tư hiện nay chừng 3 tỷ đồng cho một chiếc tàu mới đóng, 1,5 tỷ đồng cho tàu mua lại khi đã trang bị đầy đủ những trang thiết bị để ra khơi. Bởi vậy chúng tôi mong sự tiếp vốn của các Ngân hàng, nhất là Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT huyện Ninh Phước quan tâm đầu tư vốn tái sản xuất ( Tuỳ thuộc vào năng lực hiện có của mỗi thành viên), hoặc nâng cấp phát triển ngành nghề, phương tiện phù hợp với xu thế hoà nhập cùng tiến ra biển Đông cho các thành viên thuộc các tổ đoàn kết khai thác.
Với tính cần cù chịu khó của bà con ngư dân, cùng với tinh thần đoàn kết bám biển vươn khơi, sự quan tâm của Đảng và nhà nước, cùng với sự ủng hộ của các ban ngành có liên quan và đặc biệt là sự tiếp vốn của các Ngân hàng, hy vọng rằng các tổ đoàn kết khai thác hải sản của ngư dân xã Cà Ná sẽ là đội tàu tiên phong vươn ra biển đảo, vừa khai thác hải sản vừa bảo vệ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc.